Giới Thiệu Về Vân Cốc FC

Trang thông tin tổng hợp của giới trẻ Vân Cốc. Nơi giao lưu của các thế hệ Vân Cốc

Hiển thị các bài đăng có nhãn đền hát môn. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn đền hát môn. Hiển thị tất cả bài đăng

Phủ Quận Công Nguyễn Ngọc Trì – Xã Hát Môn

Phủ Quận Công Nguyễn Ngọc Trì – Xã Hát Môn

Xã Hát Môn là địa danh có nhiều công trình tôn giáo, tín ngưỡng có giá trị nhiều mặt. Đặc biệt có Đền Hát Môn thờ Hai Bà Trưng nổi tiếng khắp cả nước, đã được nhà nước xếp hạng di tích Quốc gia đặc biệt năm 2013. Nằm trong vùng địa danh nổi tiếng đó, Phủ thờ Quận công Nguyễn Ngọc Trì là một trong những di tích quan trọng của địa phương. Di tích là nơi thờ tự vị danh nhân quê hương – Quận công Nguyễn Ngọc Trì.

quan cong

Các bộ chính sử không ghi chép về Nguyễn Ngọc Trì. Tuy nhiên, tại di tích hiện nay còn một số tư liệu như bia đá, sắc phong, câu đối…khả dĩ có thể cho biết một số thông tin cơ bản về nhân vật lịch sử này. Theo ghi chép trong văn bia, Nguyễn Ngọc Trì là người xã Hát Môn. Cha ông tên là Nguyễn Ngọc Hồ. Mẹ là bà Nguyễn Thị Ngọc Biên, đều là người xã Hát Môn. Văn bia không cho biết năm sinh, năm mất của Nguyễn Ngọc Trì, song dựa vào một số tình tiết trong bia, đến năm 1625, Nguyễn Ngọc Trì đã là Đặc tiến kim tử vinh lộc đại phu, Thái giám Tham tri giám sự, tước Phúc Lộc hầu, tức là quan chức rất cao. Trên mặt bia do Nguyễn Thực Phác soạn ghi, đến năm 1631, Nguyễn Ngọc Trì đã được phong tước Quận công. Vào thời điểm này ông tuổi tác đã khá cao nên tuy không biết năm sinh, năm mất một cách cụ thể, nhưng có thể chắc chắn rằng Nguyễn Ngọc Trì sinh vào nửa sau thế kỷ XVI và mất ở nửa đầu thế kỷ XVII.

quan cong 1

Sự nghiệp chính trị của ông nổi bật nhất là vai trò của một võ tướng có huân nghiệp, từng xông pha nhiều trận, gắn với giai đoạn Thanh Đô Vương Trịnh Tráng cầm quyền (1623-1657). Với tư cách là một chiến tướng, Nguyễn Ngọc Trì đã có đóng góp nhất định giúp chính quyền Lê – Trịnh đánh bại nhà Mạc, lập lại ổn định tại Bắc Hà. Do có công lao lớn đối với chính quyền Lê – Trịnh nên theo điển chế đương thời, cha ông được phong tặng là Phù Nghĩa hầu, mẹ ông được sắc tặng là Phù Nghĩa chánh phu nhân, con trai ông là Nguyễn Ngọc Điện được phong là Hoằng tín đại phu, Hạ trật.

Không chỉ có công với chính quyền Lê – Trịnh, đối với địa phương, Nguyễn Ngọc Trì cũng có nhiều ơn điển. Ông ban cấp ruộng đất với số lượng lớn cho các xã trong tổng, trùng tu các công trình chung của địa phương…vì thế ông được nhân dân địa phươnng sùng ngưỡng. Năm 1625, các họ trong xã Hát Môn gồm: Nguyễn, Trần, Dương, Đinh, Hoàng, Đặng, Vũ, Phan, Đỗ, Hạ, Kiều, Phùng cùng bàn bạc với nhau, cho là “Người xưa có công với đời, giúp dân hưng thịnh nên được thờ tự. Huống hồ ông Phúc Lộc ta là người phò giúp xã tắc, đức tưới muôn dân, do vậy đáng lập miếu đình để xuân thu bốn mùa hưởng sự báo đáp của bàn dân thiên hạ. Thế rồi bèn lập sinh từ ngay ở bản xã để phụng thờ, đăng đối với đền thờ Trưng Vương, trường tồn mãi mãi”. Việc lập sinh từ thờ Nguyễn Ngọc Trì ngay khi ông còn sống cho thấy sự sùng kính của nhân dân địa phương đối với ông. Việc này được tác giả văn bia sánh với việc Chưởng giám Địch Hoài Anh, tức Địch Nhân Kiệt, đại thần thời Đường được dân kính sùng lập đền thờ khi còn sống.

Sinh thời, quan Quận có thời gian sinh sống tại thôn Phú Mẫn, xã Nội Trà, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Tại đây ngài lập thiếp là bà Nông Thị Ninh, phát triển thêm một dòng nhánh ở Nội Trà. Hiện lăng mộ quan Quận đặt tại đây, với đầy đủ hệ thống tượng chầu được tạo tác nghiên cẩn.

Phủ Quận công Nguyễn Ngọc Trì có tổng diện tích 1.072,6m2, toạ lạc trên một dải đất cao ráo, rộng thoáng phía bên hữu sông Hát, gần trụ sở UBND xã Hát Môn. Theo lời kể của các cụ cao niên, di tích vốn xưa kia là Am, được cấu trúc bằng các cột đá nguyên khối, có hình trụ tròn, thân cột có đục lỗ để gác các thanh xà ngang, dọc bằng gỗ lim tạo hệ sàn. Am cũng có mái lợp ngói xong không có tường vây. Hệ thống tượng thờ, tượng túc vệ cũng được bày biện như hiện nay. Đến thời vua Tự Đức 18 (1865), Am được xây dựng lại thành nơi thờ tự trang nghiêm, trong đó Hậu cung được xây dựng chữ Đinh. Trải qua thời gian, di tích bị xuống cấp, đến thời Bảo Đại 13 (1937), phần tường sau của Hậu cung bị xuống cấp nặng, khi trùng tu đã lược bớt phần chữ Đinh phía sau. Ngay phía sau phủ có một tượng mặt người bằng đất nung, bị vạt mất góc hàm trái, tương truyền đó là thủ cấp của một tướng giặc bị quan quân chém, từ sau năm 1996 mặt tượng này không còn nữa. Phía trước phủ có một giếng nước cổ, quanh năm nước trong mát. Phủ thờ Quận công tuy mới được phục dựng gần đây, song vẫn được làm trên nền đất cũ. Một số cấu kiện của công trình cũ như các cột đá làm trụ sàn xưa vẫn còn, nhiều viên gạch, ngói có niên đại cuối thế kỷ XVI, đầu thế kỷ XVII vẫn được lưu giữ. Di tích được quy hoạch khá gọn gàng, sạch đẹp, hiện không có hiện tượng lấn chiếm hay vi phạm đất đai xảy ra trong khu di tích.

Phủ Quận công hiện nay có các hạng mục công trình: Nghi môn, tả-hữu mạc, nhà phụ trợ và công trình thề tự chính gồm Tiền tế và Hậu cung hình chữ Nhị, trong đó các hạng mục Nghi môn, tả-hữu mạc, Tiền tế hiện trong tình trạng tương đối tốt; còn Hậu cung đang xuống cấp. Toàn bộ khuôn viên di tích đã được xây tường bao quanh. Bộ di vật tại Phủ Quận công Nguyễn Ngọc Trì rất phong phú về chủng loại và đa dạng về chất liệu, mang giá trị thẩm mỹ cao. Đặc biệt là hệ thống tượng đá, bia đá có niên đại đầu thế kỷ XVII. Đây là những di vật quý hiếm trên địa bàn xã Hát Môn nói riêng, huyện Phúc Thọ nói chung. Ngoài việc tôn thêm vẻ đẹp cho công trình kiến trúc, chúng còn là những tác phẩm nghệ thuật có giá trị, góp phần tôn vinh một danh nhân của quê hương.

Các tư liệu thành văn tại di tích hiện không cho biết ngày sinh, ngày hoá của Quận công, song từ xa xưa tới nay, dòng họ và dân làng vẫn lấy ngày mùng 7 tháng giêng âm lịch hàng năm là ngày hoá của ngài để tổ chức các nghi lễ cúng tế nghiêm cẩn. Ngoài dịp giỗ ngài Quận công vào ngày mùng 7 tháng giêng, tại di tích còn có các lễ: Giỗ thân phụ Quận công ngày 20/7 âm lịch; Giỗ thân mẫu quan Quận ngày 26/2 âm lịch; Giỗ chính thất phu nhân ngày 23/2 âm lịch; Lễ Lạc tiết giao điệt ngày 10 tháng giêng…Trong đó lễ lớn nhất trong năm là lễ ngày mùng 10 tháng giêng, gồm phần lễ tế và tổ chức hội vật. Hội vật được tổ chức để tưởng nhớ đến việc tuyển quân của quan Quận, đồng thời nêu cao tinh thần thượng võ của dân tộc. Tuy vậy, di tích vẫn được chính quyền và nhân dân xã Hát Môn quan tâm đặc biệt nên vẫn có các nghi lễ tế quan Quận hết sức trang nghiêm.

Không chỉ là một di tích tín ngưỡng, Phủ thờ Quận công Nguyễn Ngọc Trì còn là một địa chỉ chứa đựng nhiều giá trị khoa học. Với các giá trị lịch sử, văn hoá, khoa học, thẩm mỹ của di tích, ngày 28/6/2016, Bộ Văn hoá, thể thao và du lịch đã quyết định xếp hạng Phủ thờ Nguyễn Ngọc Trì là di tích kiến trúc nghệ thuật. Đây vừa là niềm vui, niềm vinh dự, song cũng là trách nhiệm đối với nhân dân xã Hát Môn nói riêng và huyện Phúc Thọ nói chung trong việc chăm lo, bảo tồn di tích, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội của địa phương và tăng cường giao lưu văn hoá trong quá trình hội nhập quốc tế

The post Phủ Quận Công Nguyễn Ngọc Trì – Xã Hát Môn appeared first on Vân Cốc Quê Tôi.


Read More...

Đền Hai Bà Trưng – Đền Hát Môn

Theo huyền tích, Hai Bà Trưng là cháu chắt ngoại của dòng dõi Hùng Vương. Quê mẹ của Hai Bà ở thôn Nam An, xã Canh Thiên, huyện Ba Vì. Quê cha của Hai Bà ở Hạ Lôi, huyện Yên Lãng, tỉnh Vĩnh Phúc. Bà Man Thiện, thân mẫu của Hai Bà góa chồng từ rất sớm nhưng rất chú trọng dậy con theo tinh thần yêu nước và thượng võ.



Đền Hai Bà Trưng – Hát Môn – Phúc Thọ -Hà Nội
Đền Hai Bà Trưng – Hát Môn – Phúc Thọ -Hà Nội

Đền thờ Hai Bà Trưng xã Hát Môn, huyện Phúc Thọ thành phố Hà Nội nay là Đền Hát Môn là một trong 3 ngôi đền thờ Hai Bà Trưng lớn nhất và cổ kính nhất. Tương truyền, ngày mồng 4 tháng 9 năm 40 sau Công nguyên, sau khi bị quan Thái thú nhà Hán là Tô Định giết chết chồng, Bà Trưng Trắc đã cùng em gái là Trưng Nhị tụ cờ khởi nghĩa tại cửa sông Hát Giang. Sông Hát xưa nay là sông Đáy, cửa sông Hát xưa giờ bị bồi lấp nên cửa sông Đáy giờ đây chỉ là con mương nhỏ thuộc cụm 8 xã Hát Môn. Sau khi đánh đuổi Tô Định, Bà Trưng Trắc lên ngôi vua, đóng đô ở Mê Linh, Vĩnh Phúc (nay Mê Linh thuộc Hà Nội). Năm 42, Nhà Hán sai Mã Viện (một vị tướng lão luyện, tài giỏi dưới thời Tam Quốc) mang quân sang xâm lược nước Việt. Do quân của Hai Bà là quân mới tập hợp, kinh nghiệm chiến đấu ít, nên dễ dàng thất bại trước đội quân tinh nhuệ, thiện chiến của Mã Viện. Sau khi thất trận, hai Bà rút quân quay trở lại cửa sông Hát (nơi lúc đầu tụ binh khởi nghĩa) để củng cố lực lượng. Tuy nhiên do quân địch quá mạnh, thế cùng lực kiệt Hai Bà nghe theo lời khuyên của bà bán nước nên đã gieo mình xuống sông Hát tự vẫn để giữ trọn khí tiết. Thời gian này vừa qua Tết Hàn thực (3/3) nên bà bán nước dâng Hai Bà 2 đĩa bánh trôi, hai Bà ăn xong hai đĩa bánh trôi và hai quả muỗm rồi làm lễ kính cáo trời đất sau đó gieo mình xuống sông Hát Giang tự vẫn. Đó là ngày mồng 6 tháng 3 năm Quý Mão (năm 43 sau Công nguyên). Ngay sau khi Hai Ba mất, dân làng đã làm miếu thờ để ghi nhớ công Hai Bà. Vậy có thể nói đền thờ Hai Bà Trưng ở xã Hát Môn đã có ngay sau khi hai Bà mất (tức là ngay sau năm 43). Vì hai bà ăn bánh trôi vào ngày mồng 6 tháng 3 (là ngày mất của Hai Bà) nên hiện nay nhân dân xã Hát Môn không ai ăn bánh trôi trước ngày 6/3 ÂL, phải đợi sau khi trên Đền cúng giỗ Hai Bà xong (tức là Hai Bà ăn rồi) thì mọi người mới được ăn.

Quán Tiên – Đền Hát môn
Quán Tiên – Đền Hát môn

Quán Tiên: là một kiến trúc nhỏ, xây bằng gạch, cửa mở về hướng đền kiểu vòm cuốn, có mái đao cong, nền cao hơn mặt đường 45cm, tạo ba bậc lên nền quán. Theo cuốn thần tích của làng chép lại, thì nơi đây vốn là quán hàng bán bánh trôi nước. Khi nghĩa quân của Hai Bà Trưng hội tại đàn Thề, bà hàng bánh trôi đã dâng cả gánh bánh để Hai Bà ăn trước khi ra trận dẹp giặc. Ngôi quán nhỏ này được dân làng dựng lên để tưởng nhớ công ơn đối với bà hàng bánh trôi.

Miếu Tạm ngự: nằm phía trước bên phải đền chính, có mặt bằng dạng chữ Đinh, gồm tiền tế và hậu cung. Nhà tiền tế ba gian, kiểu tường hồi bít đốc, mái lợp ngói mũi, bờ nóc đắp kiểu bờ đinh. Các bộ vì kết cấu kiểu vì “giá chiêng, hạ kẻ bẩy hiên”. Toà hậu cung ba gian, xây nối liền với tiền tế, hệ vì đỡ mái có kết cấu tương tự nhà tiền tế. Phía trước mở hệ thống cửa kiểu bức bàn. Công trình kiến trúc này là nơi tạm ngự của Thánh Bà. Khi mùa nước lũ hàng năm, khu đền chính bị ngập, dân làng rước tượng, ngai thờ và toàn bộ đồ thờ tự của đền về đền Tạm ngự, hết mùa nước lũ lại rước Thánh hoàn cung.

Nghi môn ngoại: có niên đại khởi dựng vào thời Nguyễn, được làm theo kiểu tứ trụ xây gạch, đỉnh trụ đắp nổi hình tứ phượng, lân. Phần lồng đèn đắp nổi hình tứ linh (long, ly, quy, phượng). Thân trụ có câu đối chữ Hán. Từ nghi môn theo triền đê xuống là khu đền chính, bên phải có hồ nước, giữa hồ có nhà thủy đình (phương đình) mới xây dựng gần đây. Bên trái đường trên mặt đê là nhà tưởng niệm  nữ tướng – nữ anh hùng Nguyễn Thị Định.

Đàn Thề: được xây dựng mới ở phía trước cổng tam quan, cột đá thề được tạo kiểu trụ hình tháp, bốn mặt có khắc chữ Hán, đặt trên nền cao hơn mặt sân 65cm, trổ năm bậc lên, mặt hướng vào đền khắc nội dung lời thề của Hai Bà Trưng. Bao quanh đàn thề là tường bao lửng, phía ngoài đặt các tượng voi và ngựa bằng đá.

Nghi môn: gồm ba gian kiểu chồng diêm, hai tầng mái. Ba cửa vào đền làm kiểu ván bưng. Các bộ vì đỡ mái được kết cấu theo dạng “giá chiêng, hạ kẻ, bẩy hiên”, mái lợp ngói mũi, nền lát gạch Bát.
Nhà bia: hai nhà bia được xây ở vị trí phía ngoài dãy nhà tả/ hữu mạc, trên nền cao hơn mặt sân 30cm, kiểu phương đình, mái lợp ngói ta, bốn đầu đao tạo cong vút.

Tả/ hữu mạc: mỗi dãy năm gian chạy dọc theo sân đền, kiểu tường hồi bít đốc, mái lợp ngói mũi, các bộ vì đỡ mái kết cấu dạng “giá chiêng, hạ kẻ”, được đặt lên tường bổ trụ trốn một hàng cột.


Từ Đại Bái
Từ Đại Bái


Nhà đại bái: gồm năm gian, xây gạch kiểu tường hồi bít đốc, các bộ vì đỡ mái kết cấu kiểu “thượng giá chiêng, chồng rường, cốn mê, bẩy hiên”, hoành mái phân “thượng tam – hạ tứ”, mái lợp ngói ri, nền lát gạch Bát. Trang trí trên kiến trúc tập trung dày đặc ở đầu dư, cốn, xà nách, bẩy, ván gió dưới dạng chạm nổi, chạm lộng …, với các đề tài rồng, tứ linh. Đây là sản phẩm nghệ thuật từ thời Lê Trung hưng đến thời Nguyễn. Gian giữa treo hoành phi, các cột cái đều treo câu đối ca ngợi công đức Hai Bà.




Tiền tế: gồm năm gian, xây gạch kiểu tường hồi bít đốc, nền nhà cao hơn mặt sân 30 cm, xung quanh bó gạch vỉa, các bộ vì kết cấu“thượng rường giá chiêng, hạ bẩy hiên”.

Hậu cung: gồm ba gian, xây trên nền cao hơn mặt sân, kiểu tường hồi bít đốc, mái lợp ngói mũi. Phần mái của tòa này được nối với tòa trung đường qua phần mái của nhà cầu. Bộ khung gỗ đỡ mái gồm bốn bộ vì kèo dạng “chồng rường”. Trang trí trên kiến trúc này chủ yếu là phượng. Gian giữa cung cấm được tạo một khám gỗ bưng kín bằng các ván gỗ, là nơi thờ Hai Bà.

Nhà khách: gồm năm gian, kiểu tường hồi bít đốc. Các bộ vì đỡ mái tạo kiểu “thượng giá chiêng, hạ kẻ, bẩy hiên”cột trốn.

Gò Giấu Ấn: ở phía sau hậu cung đền. Tương truyền, đây là dấu tích nơi Hai Bà Trưng cất giấu ấn tín trước lúc rút quân hoá thân về cõi vĩnh hằng ở cửa sông Hát. Hiện nay, gò Giấu Ấn được bó vỉa, xây tường gạch bao quanh.

Đền Hát Môn còn bảo lưu được nhiều di vật, cổ vật có giá trị về văn hoá, lịch sử, gồm: 293 di vật, cổ vật với nhiều chủng loại và phong phú chất liệu, như: gỗ, đá, đồng, sứ, giấy, kim loại… có niên đại trải dài từ thời Lê, Tây Sơn, Nguyễn đến nay.

Hội đền Hát Môn được tổ chức hằng năm vào ngày 6 tháng 3 (Âm lịch), với các nghi lễ và trò diễn dân gian thu hút đông đảo nhân dân địa phương và khách thập phương. Đặc biệt, tục làm bánh trôi và lễ rước bánh trôi dâng Hai Bà đã trở thành một sinh hoạt văn hóa độc đáo của vùng đất này.
Trong thời kỳ chống Pháp và chống Mỹ, Đền Hát Môn được chọn làm nơi sinh hoạt, luyện tập của dân quân du kích địa phương. Những sự kiện lịch sử và hệ thống di tích quanh vùng sông Hát góp phần làm giàu thêm nội dung và tôn cao giá trị của đền thờ Hai Bà Trưng.
Với những giá trị đặc biệt, di tích Đền Hát Môn (huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội) đã được Thủ tướng Chính phủ quyết định xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt (tại Quyết định số 2383/QĐ-TTg ngày 09/12/2013).


Read More...

Xã Hát Môn

Xã Hát Môn

Hát Môn là một xã thuộc huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội, Việt Nam.

Hát Môn nghĩa là cửa sông Hát

Hát Môn là xã nhất thôn, nhất làng (xã không có các thôn, làng khác nhau mà chỉ gọi chung là xã Hát Môn, Làng Hát Môn), thuộc huyện Phúc Thọ ngoại thành Hà Nội. Tại đây, Hai Bà đã lập đàn và tuyên đọc lời thề xuất quân: “Một xin rửa sạch quốc thù. Hai xin đem lại nghiệp xưa họ Hùng…”. Sông Hát cũng là nơi Hai Bà gieo mình tự vẫn để bảo toàn khí tiết khi bị yếu thế trước quân giặc vào ngày 6-3 năm Quý Mão (năm 43 sau Công Nguyên).

Nhìn trên bản đồ sẽ thấy xã Hát Môn có hình con Chim Bồ câu đang bay về hướng Đông (Hướng bình minh). Hiên nay xã Hát Môn đã được Thành phố Hà Nội công nhận đạt chuẩn Nông thôn mới. Đường làng ngõ xóm 100% đã được trải bê tông, đã có hệ thống đèn cao áp trên trục đường chính. Các trường học từ Mầm non đến Trung học cơ sở đều đã đạt chuẩn quốc gia. Ủy ban nhân dân xã được xây dựng chính giữa trung tâm xã, các đường liên thôn đi lại thuận tiện.

Xã có chợ phiên họp vào ngày mồng 2 và mồng 7 âm lịch. Người dân Hát môn thân thiện, cần cù chịu khó, ham học hỏi. Xã có hai nghề truyền là Xây và Mộc. Đặc biệt hiện nay nghề Tủ bếp đã và đang được khẳng định uy tín, chất lượng trên thị trường. Kinh tế xã hội đang phát triển mạnh mẽ, đã có nhiều người chịu khó làm ăn chân chính và đã mua được nhiều ô tô xây được nhiều biệt thự.

Xã Hát Môn có các di tích Lịch sử: Đền thờ Hai Bà Trưng, Miếu thờ Bà bán nước (Quán Tiên); Phủ Quận Công (Thờ Quận Công Nguyễn Ngọc Trì), Chùa Bảo Lâm, Đền thờ Đức Thánh thủy, Đình thờ Thành Hoàng làng. Có những địa danh của xã đã ăn sâu vào tiềm thức của người dân Hát Môn như: Cầu đá, Chổ Vỡ, Dốc Cầu Chông, Cầu H8, Cầu Noi, Kho Quán Cả, Lô 11, Dốc Văn Chỉ, Thổ trạch…vv.

Lễ hội Đền Hai Bà Trưng (Nay UBND TP Hà Nội thống nhất gọi là Đền Hát Môn) bao gồm: Lễ 4/9 Âm lịch Kỷ niệm Ngày Hai Bà khao quân Tế cờ khởi nghĩa, Lễ hội Mộc Dục đêm 23 ngày 24 Âm lịch (Lễ Tắm tượng Hai Bà trước khi Hai Bà ăn tết Nguyên đán), Lễ mồng 6/3 Âm Lịch là ngày Giỗ Hai Bà.

Đền thờ Hai Bà Trưng xã Hát Môn, huyện Phúc Thọ thành phố Hà Nội nay là Đền Hát Môn là một trong 3 ngôi đền thờ Hai Bà Trưng lớn nhất và cổ kính nhất. Tương truyền, ngày mồng 4 tháng 9 năm 40 sau Công nguyên, sau khi bị quan Thái thú nhà Hán là Tô Định giết chết chồng, Bà Trưng Trắc đã cùng em gái là Trưng Nhị tụ cờ khởi nghĩa tại cửa sông Hát Giang. Sông Hát xưa nay là sông Đáy, cửa sông Hát xưa giờ bị bồi lấp nên cửa sông Đáy giờ đây chỉ là con mương nhỏ thuộc cụm 8 xã Hát Môn. Sau khi đánh đuổi Tô Định, Bà Trưng Trắc lên ngôi vua, đóng đô ở Mê Linh, Vĩnh Phúc (nay Mê Linh thuộc Hà Nội). Năm 42, Nhà Hán sai Mã Viện (một vị tướng lão luyện, tài giỏi dưới thời Tam Quốc) mang quân sang xâm lược nước Việt. Do quân của Hai Bà là quân mới tập hợp, kinh nghiệm chiến đấu ít, nên dễ dàng thất bại trước đội quân tinh nhuệ, thiện chiến của Mã Viện. Sau khi thất trận, hai Bà rút quân quay trở lại cửa sông Hát (nơi lúc đầu tụ binh khởi nghĩa) để củng cố lực lượng. Tuy nhiên do quân địch quá mạnh, thế cùng lực kiệt Hai Bà nghe theo lời khuyên của bà bán nước nên đã gieo mình xuống sông Hát tự vẫn để giữ trọn khí tiết. Thời gian này vừa qua Tết Hàn thực (3/3) nên bà bán nước dâng Hai Bà 2 đĩa bánh trôi, hai Bà ăn xong hai đĩa bánh trôi và hai quả muỗm rồi làm lễ kính cáo trời đất sau đó gieo mình xuống sông Hát Giang tự vẫn. Đó là ngày mồng 6 tháng 3 năm Quý Mão (năm 43 sau Công nguyên). Ngay sau khi Hai Ba mất, dân làng đã làm miếu thờ để ghi nhớ công Hai Bà. Vậy có thể nói đền thờ Hai Bà Trưng ở xã Hát Môn đã có ngay sau khi hai Bà mất (tức là ngay sau năm 43). Vì hai bà ăn bánh trôi vào ngày mồng 6 tháng 3 (là ngày mất của Hai Bà) nên hiện nay nhân dân xã Hát Môn không ai ăn bánh trôi trước ngày 6/3 ÂL, phải đợi sau khi trên Đền cúng giỗ Hai Bà xong (tức là Hai Bà ăn rồi) thì mọi người mới được ăn.

Lễ hội đền Hai Bà Trưng xã Hát Môn là lễ cúng giỗ hai Bà được tổ chức từ ngày mồng 04 đến ngày 06 Âm lịch hàng năm. Hiện nay Đền Hát Môn là Di tích Quốc gia đặc biệt nên lễ hội của đền do Huyện ủy, UBND Huyện Phúc Thọ tổ chức.

Quý khách có thể về dự lễ hội đền và dâng hương Hai Bà vào ngày thường hoặc dịp lễ hội. Đường về Đền Hát Môn rất dễ đi, có thể đi từ Cầu Giấy Hà Nội theo đường Quốc lộ 32 đến Phùng, qua cầu Phùng 1km rẽ phải qua xã Tam Thuấn – Thanh Đa là đến xã Hát Môn, hoặc đến đê Quai Chè (tiếp giáp giữa xã Tam Hiệp và xã Ngọc Tảo) rẽ phải, hoặc đi theo nhiều đường từ Cầu Thăng Long đi theo bờ đê qua quận Bắc Từ Liêm, qua huyện Đan Phượng sang xã Hát Môn, hoặc đi từ thị xã Sơn Tây xuống, đi từ Vĩnh Phúc sang.

theo wikipedia

The post Xã Hát Môn appeared first on Vân Cốc FC.


Read More...

Video: Lễ hội truyền thống và đón nhận bằng di tích lịch sử quốc gia đặc biệt Đền Hát Môn


Di tích lịch sử đền Hát Môn, xã Hát Môn, huyện Phúc Thọ đã được Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt tại Quyết định số 2383/QĐ-TTg, ngày 09/12/2013.
Di tích lịch sử đền Hát Môn và đền Hai Bà Trưng là hai di tích phụng thờ, tưởng niệm Hai Bà Trưng và những sự kiện lịch sử gắn liền với chiến công oanh liệt chống giặc Đông Hán xâm lược đất nước những năm 40 sau Công Nguyên.
Danh hiệu di tích Quốc gia đặc biệt là sự ghi nhận và vinh danh giá trị to lớn của di tích, đồng thời đây cũng là sự ghi nhận những nỗ lực, cố gắng của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân huyện Phúc Thọ trong việc bảo tồn và phát huy giá trị của di tích lịch sử đền Hát Môn và các di tích trên địa bàn huyện.
Năm nay lễ hội truyền thống đền Hát Môn sẽ diễn ra trong 03 ngày 3,4,5 tháng 4 năm 2014 (tức mồng 4,5,6 tháng 3 năm Giáp Ngọ). Lễ hội truyền thống và đón nhận bằng di tích lịch sử quốc gia đặc biệt Đền Hát Môn- huyện Phúc Thọ  sẽ được truyền hình trực tiếp vào 8h30 hôm nay (5/4) trên kênh 1.
Kính mời quý vị và các bạn đón xem!
Read More...

Đền Hai Bà Trưng - Đền Hát Môn

  Đến thăm đền Hát Môn là đến thăm một vùng mang nhiều dấu tích anh hùng của Hai Bà - hai vị nữ lưu hào kiệt, những người đã làm rạng danh cho truyền thống anh hùng bất khuất của phụ nữ Việt Nam.

Từ Hà Nội theo quốc lộ 32 đi hết thị trấn Phùng là đến Xã Hát Môn, Huyện Phúc Thọ (xưa là Phúc Lộc), Hà Nội. Nơi đây có 1 trong 3 ngôi đền thờ Hai Bà Trưng lớn nhất và lâu đời nhất ở nước ta. Nguyên xưa, ngôi đền nằm trên bờ cửa sông Hát (đoạn sông Đáy nối sông Hồng), sau do sông đổi dòng nên đền đã ở sâu vào đất liền. 

Tương truyền, đây là nơi Hai Bà Trưng lập đàn và mở hội thề tụ nghĩa năm 40 đầu công nguyên, trước khi xuất quân đánh thái thú Tô Định. Sau khi chiếm được các thành trì ở Lĩnh Nam, Hai Bà bèn tự lập làm vua, đóng đô ở Mê Linh, Vĩnh Phúc. Hai năm sau, nhà Hán sai Mã Viện sang đánh, quân Hai Bà phải rút về giữ Cấm Khê, Trưng Vương tự vẫn ở sông Hát, về sau dân xã Hát Môn lập đền thờ kề chân đê. 

Bia đá 
  
Truyền rằng đền có từ thời tiền Lê, diện mạo hiện tại mang dấu vết từ thế kỷ 19. Từ hai phía đầu đê đi xuống đền Hát Môn là hai tấm bia có chữ "Hạ mã". Xưa kia, các quan thuộc các triều đại qua đây đều phải xuống ngựa và đi bộ để tôn kính Hai Bà. Ngay chân đê là cổng đền với các bậc thềm đi xuống. Hai bên cổng có hai cột trụ với đôi câu đối nổi tiếng:

Đồng trụ chiết hoàn Giao Lĩnh trĩ
Cẩm Khê doanh hạc Hát giang trường

tạm dịch:

Đồng trụ gãy hay còn, núi Lĩnh Nam đời đời cao ngất
Cẩm Khê vơi hay đầy, dòng Hát Giang mãi mãi vươn dài.




Đền Hai Bà nằm giữa một không gian cổ kính




Cây cối rườm rà, phong cảnh linh thiêng  
  
Trước khi vào thăm đền, ta sẽ gặp miếu "Bà Hàng nước" thờ người phụ nữ đã khuyên Hai Bà tự vẫn để giữ trọn khí tiết.

Tiếp đến, ta sẽ gặp hai trụ đồng được coi là cổng đền. Cao Bá Quát - một bậc tài danh và khí phách hào hùng ở TK 19, đã tiến cúng đền Hát Môn một đôi câu đối ca ngợi công đức Hai Bà, khắc ngay trên cột trụ:


Tùng bất kim đao, thiên khai vận,
Ưng vô đồng trụ, đá phân cương "

Nghĩa là: Nếu không có kim đao do Hai Bà (ví như trời) mở vận thì đâu có được đất nước này một bờ cõi riêng.



Trong đền, bày nhiều đồ thờ cúng cùng hoành phi, câu đối, nói lên khí phách, tinh thần quật khởi và công đức của Hai Bà, đối với non sông xã tắc. Chính giữa đền treo bức đại tự (Lạc Hùng chính thống).


 
 



    Hoành phi: Hưởng thành tích hỗ




Hoành phi: Hùng Lạc chính thống







  Hoành phi: Trì tiết hành nghĩa







 Bức hoành do các vị: Phan Duy Tiếp, Trần Lê Nhân...cúng tiến




Trong đền, bày nhiều đồ thờ cúng cùng hoành phi, câu đối, nói lên khí phách, tinh thần quật khởi và công đức của Hai Bà, đối với non sông xã tắc. Chính giữa đền treo bức đại tự (Lạc Hùng chính thống).




Phía Hậu cung đặt hai long ngai bài vị của hai Bà. Ngoài ra, trong đền hiện còn lưu giữ được khá nhiều hiện vật giá trị như: kim tự khí, hương án, bài vị... mang đậm nghệ thuật chạm khắc thời Lê. 


  Hổ phù ở nhang án thờ  



Diệp long

Tương truyền rằng Hai Bà hi sinh ở chiến trường, máu Hai Bà thấm đỏ non sông. Bởi vậy, toàn bộ đồ thờ ở đền Hát Môn đều sơn màu đen, kiêng màu đỏ. Hàng năm, người đến tế lễ cũng như dự hội hè ở Hát Môn đều không được ăn vận quần áo, trang phục màu đỏ. Nếu có phải để ở ngoài đền.







  Kiệu đền Hai Bà 



  
Kiệu long đình, sơn đen 




Án dâng lễ vật, sơn đen

Phía sau đền có một gò gọi là gò Ngọc Ấn, nơi khi xưa nghĩa quân Hai Bà chôn giấu các ấn tín và ngọc ấn. Đền đã được xếp hạng di tích lịch sử văn hoá quốc gia năm 1991
   
Ngày 6.3 năm 43, (Quý Mão) trước lúc Hai Bà hóa thân xuống dòng sông Hát   

Lễ hội chính vào ngày mồng 6 tháng Ba, mồng 4 tháng Chín và 24 tháng Chạp âm lịch. Hội lễ ngày mồng 6 tháng Ba, ngày hoá của Hai Bà Trưng là hội lễ chính hằng năm. Trong ngày hội, dân làng cúng Hai Bà những mâm đầy các đĩa bánh trôi. Theo truyền thuyết tại Hát Môn thì khi bị vây hãm, Hai Bà đã phi ngựa qua vùng căn cứ cũ, nhân lúc đói, Hai Bà ghé vào quán hàng bánh của một bà già ăn đĩa bánh trôi và 2 quả muỗm. Bánh trôi dâng phải có đủ 100 viên rất nhỏ, sau khi tế lễ xong, làng đem 49 viên đặt vào lòng một bông hoa sen thả xuống dòng sông để trôi về biển cả. Đặc biệt, dân làng Hát Môn không làm và không ăn bánh trôi trước ngày 6 tháng Ba




  
Hội lễ ngày 4 tháng Chín, tương truyền là ngày Hai Bà làm lễ xuất quân. Trong ngày hội có diễn múa cờ với sự tham gia của trai đinh trong làng, có đông đảo du khách trẩy hội. Hội lễ ngày 24 tháng Chạp, được tổ chức rất trang nghiêm. Đó là lễ Mộc dục (tắm tượng).  

Để chuẩn bị cho lễ Mộc dục, làng Hát Môn chọn 20 tráng đinh, vào nửa đêm ngày 23 sang ngày 24 rước tượng Hai Bà từ trong hậu cung ra nhà Dội (nhà tắm tượng). Cùng lúc đó, dân chài Hát Môn, cũng gọi là vạn Hát, sắm sửa thuyền chở lọ (hoặc bình, ang, hũ) đựng nước ra giữa sông Hồng lấy nước về nhà Dội để làm lễ. Gọi là tắm tượng nhưng người ta chỉ lau phủ bụi bặm trên tượng, rồi dùng khăn nhúng nước (có khi pha hương hoa lá thơm) để lau lần nữa. Sau cùng, rước tượng về bày thờ ở hậu cung.   

Đền Hát Môn cách Hà Nội chỉ trên 20km. Đến thăm đền Hát Môn là đến thăm một vùng mang nhiều dấu tích anh hùng của Hai Bà - hai vị nữ lưu hào kiệt, những người đã làm rạng danh cho truyền thống anh hùng bất khuất của phụ nữ Việt Nam.
Read More...