Giới Thiệu Về Vân Cốc FC

Trang thông tin tổng hợp của giới trẻ Vân Cốc. Nơi giao lưu của các thế hệ Vân Cốc

Hiển thị các bài đăng có nhãn Góc Bạn Đọc. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Góc Bạn Đọc. Hiển thị tất cả bài đăng

Thoát nghèo nhờ nuôi bò thịt

Thoát nghèo nhờ nuôi bò thịt

Phát huy lợi thế vùng cận sông, đất đai màu mỡ, những năm qua người dân xã Thượng Cốc đã phát triển mạnh mô hình chăn nuôi bò thịt. Đặc biệt, nhờ chăn nuôi bò, hàng trăm hộ dân trong xã vươn lên thoát nghèo bền vững và có cuộc sống ngày càng sung túc…

Ông Đỗ Xuân Nhũ, ở cụm 1, thôn Thượng Cốc, là người có kinh nghiệm nuôi bò gần 20 năm cho hay, bò là con vật dễ nuôi nhất bởi những đặc tính như có sức đề kháng tốt, ít bệnh tật, lớn nhanh. Thực tế, để chăn nuôi bò đem lại thu nhập cao thì việc lựa chọn con giống tốt và cách chăm sóc là hai yếu tố quyết định. Còn để bò chóng lớn, người chăn nuôi phải kết hợp cho bò ăn thức ăn thô với thức ăn tinh theo tỷ lệ trọng lượng cơ thể và giai đoạn sinh trưởng của bò. Theo ông Nhũ, trung bình một con bò giống Lai Sind trên thị trường có giá 13-15 triệu đồng, nếu được chăm sóc đúng kỹ thuật, sau 12 tháng xuất chuồng sẽ có giá 30-35 triệu đồng. Chỉ tay vào hai con bò đã nuôi được 6 tháng, ông Nhũ khoe: “Mới đây, thương lái vào hỏi mua với giá 28 triệu đồng/con nhưng tôi không bán. Bởi ở thời kỳ này, bò đang tuổi ăn, tuổi lớn, bán đi tiếc lắm. Để cuối năm xuất chuồng, hai con bò này cầm chắc 70 triệu đồng”.

bo-thit-24-9-16-4 bo-thit-24-9-16-5

Gia đình bà Nguyễn Thị Dự, trước đây chỉ độc canh cây lúa nên cuộc sống gặp rất nhiều khó khăn. Từ năm 2008, được Hội Nông dân, Hội Phụ nữ và các đoàn thể trong xã đứng ra bảo lãnh, hỗ trợ vay vốn 100 triệu đồng, gia đình bà đã mua 7 con bò giống Lai Sind về nuôi. “Chỉ sau 3 năm, gia đình tôi đã trả hết nợ và được công nhận thoát nghèo. Từ năm 2011 đến nay, trừ chi phí mỗi năm tôi tiết kiệm được 60-80 triệu đồng nhờ chăn nuôi bò.” – Bà Dự cho biết.

Trên đây là hai trường hợp điển hình ở xã Thượng Cốc nhờ chăn nuôi bò thịt đã mang lại thu nhập cao, từng bước ổn định cuộc sống và vươn lên làm giàu. Đến nay, toàn xã Thượng Cốc có hơn 1.300 hộ dân thì có tới gần 60% số hộ chăn nuôi bò thịt, với tổng đàn bò đạt 1.600 con. Trong đó, hộ chăn nuôi nhiều là 10-15 con, hộ ít cũng 2-3 con. Theo Chủ tịch UBND xã Thượng Cốc Nguyễn Văn Hiệp, nghề chăn nuôi bò thịt không chỉ đem lại doanh thu hơn 50 tỷ đồng/năm cho địa phương. Đã có hơn 300 hộ chăn nuôi bò thịt xây dựng được nhà cửa kiên cố, hiện đại từ 2 đến 4 tầng với đầy đủ tiện nghi sinh hoạt đắt tiền; đường làng, ngõ xóm, cơ sở vật chất nhà văn hòa, trường học… được nhân dân đóng góp xây dựng khang trang.       

Tuy nhiên, bất cập nhất hiện nay ở xã Thượng Cốc là số lượng đàn bò ngày càng gia tăng, trong khi đó các hộ chăn nuôi chưa có ý thức bảo vệ môi trường. Hầu hết các hộ chăn nuôi xả thải trực tiếp vào hệ thống nước thải và kênh mương nội đồng, ảnh hưởng đến sản xuất và sinh hoạt. Trước thực trạng này, ông Hiệp kiến nghị UBND huyện Phúc Thọ và các sở, ngành của Thành phố tổ chức các lớp tập huấn, hướng dẫn quy trình chăn nuôi an toàn, đồng thời hỗ trợ kinh phí cho các hộ chăn nuôi xây dựng hầm bioga xử lý nước thải trước khi xả ra môi trường. Có như vậy, mô hình chăn nuôi bò thịt ở xã Thượng Cốc mới phát triển bền vững.

theo phuctho.hanoi.gov.vn

The post Thoát nghèo nhờ nuôi bò thịt appeared first on Vân Cốc Online.


Read More...

Sự tích ngày rằm tháng Bảy

Sự tích ngày rằm tháng Bảy

Khi nghe đến rằm tháng bảy, lễ vu lan báo hiếu, ngày xá tội vong nhân hay tháng cô hồn bạn sẽ liên tưởng đến những sự việc liên quan mà bạn từng được biết đến, nhưng bạn biết vì sao lại có những cái tên như vậy không. Vân Cốc FC sẽ cùng bạn tìm hiểu về những ngày lễ ý nghĩa này.

vu lan bao hieu

Tháng 7 âm lịch, người Việt có một ngày lễ mà giới tăng ni Phật tử thường gọi là ngày lễ Vu Lan. Đây là một đại lễ báo hiếu cha mẹ, ông bà, tổ tiên đã khuất – một tập tục đáng quý, đáng trọng của người Việt, thể hiện tấm lòng “ăn quả nhớ kẻ trồng cây”.

Rằm tháng 7 âm lịch cũng là ngày xá tội vong nhân mà dân gian gọi nôm na là ngày cúng chúng sinh. ngày này người xưa quan niệm cửa địa ngục sẽ được mở ra và vong linh sẽ được tự do về thăm nhà được hưởng đồ cúng, còn gọi là ngày cúng cô hồn.

Tháng 7 còn là tháng mưa Ngâu – gắn với sự tích ông Ngâu bà Ngâu hay còn gọi là tích Ngưu Lang – Chức Nữ.

Xuất xứ lễ Vu Lan

Xuất phát từ sự tích về Bồ tát Mục Kiền Liên đại hiếu đã cứu mẹ của mình ra khỏi kiếp ngạ quỷ. Vu Lan là ngày lễ hằng năm để tưởng nhớ công ơn cha mẹ (và tổ tiên nói chung) – cha mẹ của kiếp này và của các kiếp trước.

Theo kinh Vu Lan thì ngày xưa, Mục Kiền Liên đã tu luyện thành công nhiều phép thần thông. Mẫu thân ông là bà Thanh Đề đã qua đời, ông tưởng nhớ và muốn biết bây giờ mẹ như thế nào nên dùng mắt phép nhìn khắp trời đất để tìm. Thấy mẹ mình, vì gây nhiều nghiệp ác nên phải sanh làm ngạ quỷ, bị đói khát hành hạ khổ sở, ông đã đem cơm xuống tận cõi quỷ để dâng mẹ. Tuy nhiên do đói ăn lâu ngày nên mẹ của ông khi ăn đã dùng một tay che bát cơm của mình đi tranh không cho các cô hồn khác đến tranh cướp, vì vậy khi thức ăn đưa lên miệng thức ăn đã hóa thành lửa đỏ. Mục Liên quay về tìm Phật để hỏi cách cứu mẹ, Phật dạy rằng: “dù ông thần thông quảng đại đến đâu cũng không đủ sức cứu mẹ ông đâu. Chỉ có một cách nhờ hợp lực của chư tăng khắp mười phương mới mong giải cứu được. Ngày rằm tháng bảy là ngày thích hợp để vận động chư tăng, hãy sắm sửa lễ cúng vào ngày đó”.

Làm theo lời Phật, mẹ của Mục Liên đã được giải thoát. Phật cũng dạy rằng chúng sanh ai muốn báo hiếu cho cha mẹ cũng theo cách này (Vu Lan Bồn Pháp). Từ đó ngày lễ Vu Lan ra đời.

Sự tích ngày xá tội vong nhân

Sự tích lễ cúng cô hồn như sau: Cứ theo “Phật Thuyết Cứu Bạt Diệm Khẩu Ngạ Quỷ Ðà La Ni Kinh” mà suy thì việc cúng cô hồn có liên quan đến câu chuyện giữa ông A Nan Ðà, thường gọi tắt là A Nan, với một con quỷ miệng lửa (diệm khẩu) cũng gọi là quỷ mặt cháy (diệm nhiên). Có một buổi tối, A Nan đang ngồi trong tịnh thất thì thấy một con ngạ quỷ thân thể khô gầy, cổ nhỏ mà dài, miệng nhả ra lửa bước vào. Quỷ cho biết rằng ba ngày sau A Nan sẽ chết và sẽ luân hồi vào cõi ngạ quỷ miệng lửa mặt cháy như nó. A Nan sợ quá, bèn nhờ quỷ bày cho phương cách tránh khỏi khổ đồ. Quỷ đói nói: “Ngày mai ông phải thí cho bọn ngạ quỷ chúng tôi mỗi đứa một hộc thức ăn, lại vì tôi mà cúng dường Tam Bảo thì ông sẽ được tăng thọ mà tôi đây cũng sẽ được sanh về cõi trên”.

A Nan đem chuyện bạch với Ðức Phật. Phật bèn đặt cho bài chú gọi Là “Cứu Bạt Diệm Khẩu Ngạ Quỷ Ðà La Ni”, đem tụng trong lễ cúng để được thêm phước. Phật tử Trung Hoa gọi lễ cúng này là Phóng diệm khẩu, tức là cúng để bố thí và cầu nguyện cho loài quỷ đói miệng lửa, nhưng dân gian thì hiểu rộng ra và trại đi thành cúng cô hồn, tức là cúng thí cho những vong hồn vật vờ không nơi nương tựa vì không có ai là thân nhân trên trần gian cúng bái. Vì tục cúng cô hồn bắt nguồn từ sự tích này, cho nên ngày nay người ta vẫn còn nói cúng cô hồn là Phóng diệm khẩu. Có khi còn nói tắt thành Diệm khẩu nữa. Diệm khẩu, từ cái nghĩa gốc là (quỷ) miệng lửa, nay lại có nghĩa là cúng cô hồn. Ðiều này góp phần xác nhận nguồn gốc của lễ cúng cô hồn mà chúng tôi đã trình bày trên đây. Phóng diệm khẩu mà nghĩa gốc là “thả quỷ miệng lửa”, về sau lại được hiểu rộng thêm một lần nữa thành “tha tội cho tất cả những người chết”. Vì vậy, ngày nay mới có câu : “Tháng bảy ngày rằm xá tội vong nhân”.

Nhưng lễ cúng cô hồn khác với lễ Vu Lan dù được cử hành trong cùng Ngày Rằm. Một đằng là để cầu siêu cho cha mẹ nhiều đời được siêu thoát, một đằng là để bố thí thức ăn cho những vong hồn chưa được siêu thoát, những vong hồn không nơi nương tựa, không người cúng kiếng.

Sự tích Ngưu Lang – Chức Nữ

Thuở xưa, có vị thần chăn trâu của Ngọc Hoàng tên là Ngưu Lang, vì say mê nhan sắc của một tiên nữ phụ trách việc dệt vải tên là Chức Nữ nên bỏ bễ việc chăn trâu, để trâu đi nghênh ngang vào điện Ngọc Hư. Chức Nữ cũng vì mê tiếng tiêu của Ngưu Lang nên trễ nải việc dệt vải. Ngọc Hoàng thượng đế giận giữ, bắt cả hai phải ở cách xa nhau, người đầu sông Ngân, kẻ cuối sông. Nhưng về sau, Ngọc Hoàng nghĩ lại, thương tình nên ra ơn cho Ngưu Lang và Chức Nữ mỗi năm được gặp nhau một lần vào đêm mùng 7 tháng Bảy âm lịch. Khi tiễn biệt nhau, Ngưu Lang và Chức Nữ khóc sướt mướt. Nước mắt của họ rơi xuống trần hoá thành cơn mưa và được người dưới trần gian đặt tên là mưa ngâu(thông thường vào tháng Bảy âm lịch) và gọi họ là ông Ngâu bà Ngâu. Thời bấy giờ sông Ngân trên thiên đình không có một cây cầu nào cả nên Ngọc Hoàng mới ra lệnh cho làm cầu để Ngưu Lang và Chức Nữ được gặp nhau. Các phường thợ mộc ở trần thế được vời lên trời để xây cầu. Các phường thợ mộc mạnh ai nấy làm, không ai nghe ai. Kẻ muốn làm kiểu này, người muốn làm kiểu kia, cãi nhau chí chóe. Đến kỳ hạn mà cầu vẫn không xong. Ngọc Hoàng bực tức, bắt tội các phường thợ mộc hóa kiếp làm quạ lấy đầu sắp lại làm cầu cho Ngưu Lang và Chức Nữ gặp nhau. Bị hoá làm quạ, các phường thợ mộc lại càng giận nhau hơn. Vì thế cứ tới tháng bảy là loài quạ phải họp nhau lại để chuẩn bị lên trời bắc Ô kiều. Khi gặp nhau, nhớ lại chuyện xưa nên chúng lại lao vào cắn mổ nhau đến xác xơ lông cánh. Ngưu Lang và Chức Nữ lên cầu, nhìn xuống thấy một đám đen lúc nhúc ở dưới chân thì lấy làm gớm ghiếc, mới ra lệnh cho đàn chim ô thước mỗi khi lên trời làm cầu thì phải nhổ sạch lông đầu. Từ đó, cứ tới tháng bảy thì loài quạ lông thì xơ xác, đầu thì rụng hết lông. Có dị bản khác cho rằng tên gọi của Ô kiều là cầu Ô Thước do chim Ô (quạ) và chim Thước (chim Khách) kết cánh tạo ra.

The post Sự tích ngày rằm tháng Bảy appeared first on Vân Cốc FC.


Read More...