(Dân trí)- Cùng với thế giới, dân tộc Việt cũng có truyền thuyết về tổ phụ và tổ mẫu của riêng mình. Để hết thế hệ này đến thế hệ khác, chúng ta cùng nhau viết tiếp về sự hưng thịnh của nòi giống “con Rồng cháu Tiên”, và để cùng hướng về ngày giỗ Tổ…
Như một niềm kiêu hãnh sâu trong tâm linh, mỗi dân tộc, mỗi quốc gia đều có truyền thuyết riêng cho nguồn gốc của mình. Nếu người Trung Quốc giải thích sự ra đời của vũ trụ, của đất nước họ bằng truyền thuyết Bàn Cổ, người Nhật giải thích nguồn gốc dân tộc mình bằng truyền thuyết Izanagi và Izanami, người Việt có truyền thuyết về Lạc Long Quân và Âu Cơ.
Tương truyền, Âu Cơ là con gái của vua Đế Lai. Trong khi đi tuần
thú phương Nam, ông đã để Âu Cơ lại trên một cái động. Khi Lạc Long Quân
đi đến đây thấy nàng xinh đẹp nên đã đem lòng yêu mến và cưới về làm
vợ. Hai vợ chồng Lạc Long Quân và Âu Cơ đã sống với nhau và sinh ra một
cái bọc trăm trứng, nở ra 100 người con (truyền thuyết này giải thích vì
sao người Việt gọi nhau là đồng bào).
Ngày 10/3- ngày Quốc Giỗ của cả dân tộc Việt
Sau khi chia tay, người con cả trong số những người con theo mẹ lên Phong Châu (nay thuộc tỉnh Phú Thọ) đã được tôn làm vua gọi là Hùng Vương lập ra nước Văn Lang. Vua Hùng là người dựng nước, truyền nối được mười tám đời. Các vua Hùng chọn núi Nghĩa Lĩnh- ngọn núi cao nhất vùng để đóng đô, bàn việc nước, đồng thời thực hiện những ghi lễ thờ cúng theo tín ngưỡng cư dân nông nghiệp thờ thần lúa, thần mặt trời, cầu mưa thuận gió hòa, cho muôn dân thái bình, yên ấm.
Nhớ ơn các vua Hùng, nhân dân đã lập đền thờ các vua Hùng (khu di
tích đền Hùng) và lấy ngày 10 tháng 3 âm lịch hằng năm là ngày giỗ Tổ.
Việc thờ cúng các đời vua Hùng đã được lưu truyền từ thế hệ này sang thế
hệ khác trong đời sống tâm linh của người Việt, được xem như một nghi
lễ văn hóa của cả dân tộc Việt trải qua hàng ngàn năm dựng nước, giữ
nước.
Lễ giỗ Tổ tưởng nhớ các vua Hùng là nghi lễ văn hóa đã tồn tại hàng ngàn năm trong đời sống tâm linh của người Việt
Văn học dân gian có câu: Dù ai đi ngược về xuôi/ Nhờ ngày giỗ Tổ mùng 10 tháng 3.
Ngày mùng 10 tháng 3 âm lịch hằng năm đã trở thành “điểm hẹn” tâm linh
trong mỗi người dân nước Việt. Cứ đến ngày này, dù ai ở xa, dù ai đang
bận rộn, dù đi đâu về đâu, cũng tìm đường về chân núi Nghĩa Lĩnh dâng
hương tưởng nhớ các vua Hùng đã có công dựng nước.Ngày 6/1/2001, chính phủ ban hành Nghị định số 82/2001/NĐ-CP, quy định về quy mô, nghi lễ tổ chức giỗ Tổ Hùng Vương và lễ hội Đền Hùng hàng năm. Ngày 10 tháng 3 trở thành ngày Quốc Giỗ của cả dân tộc.
Lễ hội đền Hùng với phần tế lễ và phần hội luôn mang đậm văn hóa
truyền thống. Phần tế lễ được cử hành trọng thể mang tính Quốc lễ. Lễ
vật dâng cúng là “lễ tam sinh”, là bánh chưng, bánh dày, xôi nhiều màu…
Nhạc khí cử hành là trống đồng cổ. Với những nghi lễ văn hóa đậm nét, cả
dân tộc trong một khoảnh khắc linh thiêng cùng nhau hướng về nguồn cội
của mình.
Người
dân ở khắp mọi miền đất nước dâng lên vua Hùng những sản vật tiêu biểu
của văn hóa truyền thống, đó là bánh chưng, bánh dày, xôi nhiều màu...
Tháng 12/2012, tín ngưỡng thờ cúng vua Hùng của dân tộc Việt Nam đã
được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân
loại. Sự công nhận của thế giới trước tín ngưỡng thờ cúng vua Hùng chính
là sự đánh giá tầm quan trọng bậc nhất việc một dân tộc luôn biết gìn
giữ văn hóa nguồn cội trong “vòng xoáy” hội nhập.“Dù ai đi ngược về xuôi/ Nhớ ngày giỗ Tổ mùng 10 tháng 3”, lễ giỗ Tổ đang đến rất gần- đó không chỉ là ngày hội quần tụ của cả dân tộc, còn là ngày để chúng ta- mỗi người dân Việt khẳng định sức mạnh giống nòi, và sức trường tồn mãnh liệt của văn hóa dân tộc.
P.Hạnh- H.H
Ảnh: Minh Hòa
Theo dantri.vn